Phòng Khám Nhi Sunshine

Save Vietnamese Children

Hotline:

028.9995.8679

Hotline:

028.9995.8679

ĐẶT LỊCH HẸN KHÁM

    *Vui lòng kiểm tra kỹ về Địa điểm phòng khám, Khoa khám bệnh, Bác sĩ, Ngày khám, Giờ khám trước khi thực hiện bước tiếp theo.







    ĐĂNG KÝ HẸN KHÁM









      *Vui lòng kiểm tra kỹ về Địa điểm phòng khám, Khoa khám bệnh, Bác sĩ, Ngày khám, Giờ khám trước khi thực hiện bước tiếp theo.


      Còi xương ở trẻ em – Nhận biết và cách phòng ngừa

      Trang Chủ » Bệnh Dinh Dưỡng » Còi xương ở trẻ em – Nhận biết và cách phòng ngừa

      Tác giả: Trần Công01/03/2021

      Nguyên nhân gây bệnh còi xương là do thiếu vitamin D – thành phần quan trọng giúp tạo xương. Có thể tìm thấy vitamin D có trong các loại thức ăn, và còn được tổng hợp dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Còi xương hiện nay vẫn còn khá phổ biến ở trẻ em, nhất là trẻ nhũ nhi, nếu không được phát hiện sớm và xử trí phù hợp sẽ gây nhiều bất lợi cho sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ.

      Nguyên nhân trẻ bị còi xương

      Còi xương là bệnh loạn dưỡng xương do rối loạn chuyển hoá vitamin D hoặc thiếu vitamin D trong cơ thể. Còi xương là bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ nhất là trẻ dưới 1 tuổi. Theo thống kê, trong mấy năm gần đây, tỷ lệ còi xương ở trẻ ngày càng tăng. Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, cứ 100 trẻ em Việt Nam dưới 3 tuổi thì có khoảng 10 cháu bị còi xương.

      Nguyên nhân bệnh còi xương là do thiếu vitamin D – thành phần quan trọng giúp tạo xương.

      Thiếu vitamin D ở trẻ thường gặp trong những tình huống cụ thể như: cha mẹ giữ trẻ quá kỹ không dám cho trẻ tiếp xúc dưới ánh nắng mặt trời (vitamin D thường được tổng hợp dễ dàng dưới ánh nắng mặt trời), trẻ không được bú mẹ vì trong sữa mẹ khá dồi dào lượng vitamin D.

      Trẻ ăn dặm được cho ăn quá nhiều chất bột, chất đạm (thịt) gây tình trạng toan chuyển hóa và tăng đào thải calci ra nước tiểu trong khi thiếu hẳn các loại thực phẩm giàu vitamin D như cá (dầu, gan, cá), trứng cá, bột ngũ cốc, đậu nành…hoặc thiếu các loại thức ăn cần thiết giúp hấp thu vitamin D là chất dầu/mỡ (vitamin D tan trong chất béo).

      Biểu hiện của bệnh còi xương

      Các biểu hiện ở hệ thần kinh

      • Trẻ ra mồ hôi nhiều kể cả ban đêm (mồ hôi trộm).
      • Trẻ kích thích khó ngủ, hay giật mình.
      • Rụng tóc gáy (do trẻ ra mồ hôi nhiều).
      • Đối với còi xương cấp có thể gặp: thở rít, nôn, nấc khi ăn, khóc lặng, co giật.
      • Trẻ biết lẫy, bò chậm so với bình thường.

      Các biểu hiện ở xương

      • Thóp mềm, lâu liền, bướu trán, bướu đỉnh.
      • Lâu mọc răng, khi mọc thì hay bị sâu và rụng.
      • Lồng ngực hình gà, chuỗi hạt sườn.
      • Vòng cổ chân, vòng cổ tay, xương chi cong.

      Toàn thân

      Chán ăn, da xanh thiếu máu, suy dinh dưỡng, lách to.

      Những nguy cơ và hậu quả của bệnh còi xương ở trẻ

      • Bệnh còi xương thường gặp ở trẻ nhỏ do xương chậm phát triển vì thiếu vitamin D. Hậu quả là xương của trẻ bị cong, dễ gãy xương khi có chấn thương như té ngã. Biểu hiện của bệnh là trẻ hay đổ mồ hôi, hay bị giật mình khi ngủ, kém ăn hay quấy khóc, gầy yếu, chậm lớn.
      • Ở một số trẻ đầu có vẻ to so với thân mình. Nếu trẻ nhỏ bị còi xương thì thóp chậm kín, răng chậm mọc, dễ bị sún răng. Trường hợp nặng có thể thấy xương sống bị vẹo, cong xương tay, chân, chậm biết lẫy, chậm biết ngồi, chậm biết đi. Có khi trẻ bị co giật do thiếu calc.
      • Bệnh còi xương ảnh hưởng rất lớn và lâu dài đến sự phát triển thể chất, vận động và có thể gây biến dạng xương của trẻ, đặc biệt với các em gái còn ảnh hưởng tới quá trình sinh đẻ sau này (do khung chậu hẹp).
      • Bệnh còi xương còn có thể gây biến dạng xương và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn nặng nhất là viêm phổi vì trẻ bị còi xương sức đề kháng rất yếu kém.

      Chủ động phòng ngừa bệnh còi xương cho trẻ

      • Để phòng chống còi xương cần cho trẻ bú mẹ và ăn bổ sung đủ các chất dinh dưỡng đặc biệt là các thức ăn giàu vitamin D và calci (trứng, sữa, gan, tôm, cua, cá…). Vitamin D là loại vitamin tan trong chất béo, do vậy bữa ăn của trẻ còn cần có đủ dầu, mỡ để giúp cơ thể trẻ hấp thu và sử dụng tốt vitamin này. Với những trẻ có nguy cơ cao như đã nói ở trên, ngoài việc bảo đảm chế độ nuôi dưỡng cần được bổ sung thêm vitamin D với liều 400 đơn vị/ngày, uống liên tục trong năm đầu, từ 2 năm trở về sau sẽ dùng 200.000 đơn vị trong mùa đông cho đến khi trẻ 5 tuổi.
      • Bà mẹ khi có thai phải làm việc và nghỉ ngơi hợp lý để tránh bị sinh non, có thể uống vitamin D khi thai được 7 tháng với liều 600.000 đơn vị trong 3 tuần (200.000 đơn vị/tuần). Sau sinh, cả mẹ và con không ở trong phòng tối, kín, phòng ở phải thoáng, mát, đủ ánh sáng. Từ sau 2 tuần tuổi, cho trẻ tiếp xúc thường xuyên với ánh sáng tự nhiên, tốt nhất là cho trẻ làm quen với ánh sáng dịu buổi sáng để bảo đảm trẻ có đủ ánh sáng mặt trời. Khi tắm nắng cần để lộ chân tay, lưng, bụng trẻ ra ngoài từ 10-20 phút lúc buổi sáng (9-9 giờ 30 phút), thời gian chiếu nắng có thể tăng dần đến 30 phút/ngày.
      • Để ánh nắng chiếu trực tiếp lên da trẻ mới có tác dụng, nếu chiếu qua lần vải hoặc qua cửa kính sẽ còn rất ít tác dụng. Khi thấy trẻ có những dấu hiệu của còi xương nên cho trẻ đi khám để thầy thuốc hướng dẫn và chỉ định cách điều trị cụ thể và tích cực hơn.